Tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo theo hướng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm vai trò kiến tạo để phát triển giáo dục. Đổi mới quản trị nhà trường theo hướng tinh gọn, hiện đại, minh bạch; tăng cường thực hiện dân chủ cơ sở, phát huy vai trò và tiếng nói của đội ngũ nhà giáo trong các nhà trường.
3. Nắm bắt được các giải pháp quản trị nhằm hạn chế những bất trắc của các yếu tố môi trường; Chương 4: 1. Hiểu được bản chất của thông tin quản trị. 2. Biết được chức năng của thông tin quản trị trong một tổ chức. 3.
Ngoài chương trình mới vẫn nặng về số môn, số tiết học thì chúng ta thất chương trình mới sẽ tăng thêm số buổi học so với hiện nay. Khác với chương trình hiện hành, học sinh tiểu học trong những năm tới đây khi mà thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới là
Cụ thể, chương trình giáo dục phổ thông hiện hành được xây dựng theo định hướng nội dung, nặng về truyền thụ kiến thức, chưa chú trọng giúp học sinh vận dụng kiến thức học được vào thực tiễn. Vì vậy, học sinh phải học và ghi nhớ rất nhiều nhưng khả năng vận dụng vào đời sống rất hạn chế.
Hôm nay 5.9, học sinh cả nước bước vào khai giảng năm học mới 2022 - 2023. Đây là năm học đầu tiên việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông được triển khai đồng loạt ở cả 3 cấp học thay vì chỉ ở những lớp đầu cấp tiểu học, THCS như năm trước.
Bộ GD-ĐT đã phối hợp với Bộ Nội vụ chỉ đạo các địa phương rà soát, tổng hợp số liệu thừa, thiếu giáo viên và đề xuất Chính phủ bổ sung giáo viên mầm non, phổ thông theo lộ trình từ nay đến năm 2026. Trên cơ sở đề xuất của Bộ GD-ĐT, Bộ Nội vụ, Bộ Chính
8qhd.
Chương trình giáo dục phổ thông mới của Bộ GD&ĐT Chương trình giáo dục phổ thông mới của Bộ GD&ĐT ra đời với mục tiêu kế thừa những điểm mà chương trình hiện hành đang làm tốt, đồng thời đẩy mạnh việc phát triển dựa trên năng lực và kiến thức phục vụ đời sống. Cụ thể các đổi mới này như thế nào, mời quý phụ huynh cùng tìm hiểu trong bài viết sau điều cần biết về chương trình giáo dục phổ thông mới và cách thức triển khai Đầu tiên, trong bài viết này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu định nghĩa cơ bản về chương trình giáo dục phổ thông mới. Tiếp đến, chúng tôi sẽ phân tích các điểm khác nhau giữa chương trình mới và chương trình hiện hành, cũng như các lợi ích mà chương trình mới có thể mang nào là chương trình giáo dục phổ thông mới? Đâu là những điểm khác biệt so với chương trình giáo dục cũ? Chương trình giáo dục phổ thông mới bắt đầu đi vào thực nghiệm năm 2019. Đây được xem là bước “chuyển mình” của giáo dục nước nhà khi khắc phục được các hạn chế của chương trình hiện hành mà vẫn giữ nguyên các thành tựu vốn có. Chương trình phát triển theo định hướng xây dựng năng lực, phẩm chất cho học sinh và định hướng nghề nghiệp phù hợp cho các em từ sớm. Để đạt được mục tiêu này, chương trình sẽ đẩy mạnh việc truyền đạt kiến thức cơ bản, thực tế và chú trọng hơn nữa việc học tập trải trình học được chia làm 2 giai đoạn Giai đoạn giáo dục cơ bản Lớp 1 đến lớp 9 và giai đoạn giáo dục hướng nghiệp Lớp 10 đến lớp 12Chương trình lồng ghép các nội dung có liên quan để tạo thành bộ môn tích hợp, vừa giảm số môn học, vừa hạn chế chồng chéo kiến thức Thiết kế một số môn học theo chủ đề và tạo cơ hội cho học sinh lựa chọn chủ đề thích hợp với bản thân. Các môn học đó bao gồm Tin học và Công nghệ, Giáo dục thể chất, Hoạt động trải nghiệm, Hướng nghiệp Bên cạnh các môn bắt buộc, học sinh được phép lựa chọn các môn và chuyên đề học tập phù hợp với định hướng nghề nghiệp của bản thân ➡️ Phương pháp giảng dạy trình mới trao quyền chủ động cùng trách nhiệm cho mỗi địa phương trong việc bổ sung các nội dung phù hợp với đặc điểm và đối tượng học tại địa phương vào bài học. Trong khi đó, các nội dung giáo dục cốt lõi vẫn giữ nguyên và thống nhất trên cả nước. Chương trình giáo dục phổ thông mới mang lại những lợi ích thực tiễn gì cho các em học sinh? Khi học tập và rèn luyện theo chương trình giáo dục phổ thông mới, các em sẽ nhận được 4 lợi ích chính sau đây Cơ hội học tập chủ động Học sinh có thể chủ động tiếp thu các kiến thức thông qua việc chọn bộ môn phù hợp. Ngoài ra, việc học tập chủ động còn thể hiện qua việc tự học, tự tìm hiểu và phân tích kiến thức ở các nội dung mở. “Lằn ranh” môn chính - môn phụ được xóa bỏ, các em có thể thoải mái hơn trong việc chú tâm vào bộ môn yêu thích mà không còn mang định kiến “học lệch”.Chọn đúng nghềQua chương trình mới, các em sẽ sớm có định hướng nghề nghiệp phù hợp. Tiếp đến, các em sẽ được học tập các bộ môn và kỹ năng phục vụ tốt cho lộ trình chinh phục tương lai của trường nên làm gì để từng bước triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới?Trong năm học 2020 - 2021 này, chương trình giáo dục phổ thông mới và sách giáo khoa mới đã được áp dụng cho khối lớp 1. Trong thời gian đầu áp dụng, cả giáo viên, học sinh và phụ huynh vẫn còn gặp khó khăn do chưa thể làm quen, bắt nhịp với các thay đổi mới. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện, việc dạy và học cũng đã dần đi vào quỹ đạo. Sang năm 2021-2022, chương trình sẽ được tiếp tục áp dụng với lớp 2 và lớp 6. Vậy Nhà trường và đội ngũ giáo viên cần làm gì để tiếp tục thực hiện các đổi mới?1. Nhà trường cần có sự phân công dạy học phù hợpChương trình mới, đặc biệt là ở lớp 6 cấp THCS, có sự bổ sung của các môn học mới như môn tích hợp Lịch sử - Địa lí, Khoa học tự nhiên và nội dung giáo dục địa phương. Ngoài ra, chương trình sẽ có các hoạt động học tập trải nghiệm. Do đó, các trường cần có sự phân công giáo viên có năng lực chuyên môn phù hợp để giảng dạy thật Giáo viên cần chuẩn bị trước giáo án và nội dung dạy họcMôn học mới, sách mới, phương hướng mới, tất cả đều đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ càng của giáo viên không chỉ trước buổi học mà trước cả khi học kỳ mới bắt đầu. Để truyền tải chương trình tốt hơn, thầy cô cũng cần nghiên cứu thêm các phương pháp dạy mới, cộng với sử dụng công nghệ, kỹ thuật.➡️ Trường tiểu học tư thục TPHCM Nhìn chung, chương trình giáo dục phổ thông mới kế thừa và phát huy những điểm tốt của chương trình cũ, đồng thời khắc phục các thiếu sót, bất cập. Chương trình được kỳ vọng mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho học sinh, song cũng đòi hỏi sự nỗ lực rất lớn từ cả Trường học, giáo viên, phụ huynh và học sinh.
THEO Bộ GD và ĐT, chương trình tổng thể đã kế thừa và phát huy những ưu điểm của chương trình giáo dục phổ thông hiện hành, đồng thời tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước có nền giáo dục phát triển. Chương trình tổng thể được xây dựng theo hướng chuyển từ chú trọng trang bị kiến thức sang phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh. Mặt khác, chương trình tổng thể còn cụ thể hóa mục tiêu giáo dục toàn diện và hài hòa đức, trí, thể, mỹ thành mục tiêu của từng cấp học và nêu được những biểu hiện chủ yếu về phẩm chất, năng lực học sinh ở từng cấp học. Chương trình tổng thể đáp ứng yêu cầu của giai đoạn giáo dục cơ bản gồm cấp tiểu học năm năm và cấp THCS bốn năm, bảo đảm trang bị cho học sinh tri thức phổ thông nền tảng, toàn diện, cần thiết, đáp ứng yêu cầu phân luồng sau THCS. Trong khi đó, giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp cấp THPT ba năm bảo đảm học sinh tiếp cận nghề nghiệp phù hợp với năng lực, nguyện vọng và chuẩn bị cho giai đoạn sau giáo dục phổ thông có chất lượng. Theo các chuyên gia giáo dục, chương trình tổng thể đã định hướng khá rõ ràng cho các chương trình môn học về vị trí, mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học, đánh giá giáo dục học sinh. Chương trình tổng thể cũng khẳng định những điều kiện cơ bản, tối thiểu về công tác quản lý, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, kỹ thuật của trường phổ thông; phù hợp với thực tiễn, đồng thời đặt ra yêu cầu nhà trường phải liên tục phát triển, tích cực thay đổi cách dạy và học. Bên cạnh việc nhất trí với các nội dung trong dự thảo chương trình tổng thể, một số ý kiến còn băn khoăn đề nghị Bộ GD và ĐT làm rõ, bổ sung vào trong dự thảo. Theo PGS Văn Như Cương, Trường THPT dân lập Lương Thế Vinh Hà Nội Bộ GD và ĐT cần xác định rõ mục tiêu, mục đích của giáo dục Việt Nam. Hiện nay, mục tiêu của các cấp học cuối cùng để thi đại học. “Một nền giáo dục ứng thí, phục vụ việc thi, lên lớp, không phải để phục vụ đời sống cao hơn. Do đó, toàn bộ đổi mới lần này phải nhắm vào việc bằng cấp không có giá trị mà là lao động có giá trị, làm ra của cải cho xã hội. Mặt khác, nếu không thay đổi lại mục tiêu giáo dục, không phân luồng mạnh học sinh sau trung học phổ thông, Việt Nam sẽ phải nhập khẩu lao động thợ bậc cao, còn lao động Việt Nam chỉ đi làm thuê những ngành nghề đơn giản nhất” - PGS Văn Như Cương nhấn mạnh. Tại hội nghị góp ý vào dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể mới đây, Hiệp hội các trường đại học, cao đẳng Việt Nam đề nghị Bộ GD và ĐT cần công bố công khai danh tính “kiến trúc sư” của chương trình tổng thể, cũng như của từng môn học cụ thể để toàn xã hội biết. Không nên theo cách làm lâu nay là chỉ gắn chương trình với một tập thể mà thường là gồm những người có chức sắc hoặc gắn với người đứng đầu ngành. Theo đó, Bộ GD và ĐT chỉ nên ban hành chương trình chuẩn và cho phép các địa phương, các trường được quyền điều chỉnh để hoàn thành chương trình cụ thể. Trong khi đó, nhiều ý kiến cũng cho rằng, dự thảo chương trình tổng thể coi trọng việc dạy học theo hướng tích hợp và phân hóa nhưng phân hóa cuối cùng của THPT là Khoa học xã hội và Khoa học tự nhiên. Tuy nhiên, khi định hướng nghề nghiệp mà chỉ chia hai khối như trên là không đủ... Theo Thứ trưởng GD và ĐT Nguyễn Vinh Hiển Trong dự thảo chương trình tổng thể, chương trình THPT được xây dựng theo tinh thần bảo đảm phân hóa mạnh và sâu dần từ lớp 10 đến lớp 11, 12; học sinh học một số môn bắt buộc, đồng thời được tự chọn các môn học từ lớp 10 và chuyên đề học tập từ lớp 11, trong đó có những chuyên đề riêng về hướng nghiệp. Kết thúc giai đoạn này, học sinh có kiến thức, kỹ năng phổ thông cơ bản được quy định hướng theo lĩnh vực nghề nghiệp, phù hợp với năng khiếu, sở thích, phát triển tiềm năng cá nhân để chuẩn bị tốt cho giai đoạn giáo dục sau phổ thông hoặc bước vào cuộc sống lao động. Chương trình tổng thể sẽ quy định rõ hơn theo định hướng sau Học sinh THPT học tối thiểu bảy hoặc sáu môn và các chuyên đề học tập, hoạt động trải nghiệm sáng tạo; trong đó có bốn môn bắt buộc là Ngữ văn 1, Toán 1, Công dân với Tổ quốc, Ngoại ngữ 1. Các môn học tự chọn được định hướng như sau Tự chọn tùy ý, chọn theo nhóm môn... Đáng chú ý, nhiều ý kiến đề nghị có các môn học Lịch sử, Quốc phòng - An ninh trong chương trình giáo dục phổ thông mới. Bộ GD và ĐT cho rằng, theo dự thảo chương trình tổng thể, ở THPT, môn Công dân với Tổ quốc là một trong bốn môn học bắt buộc, tích hợp của ba phân môn Đạo đức - Công dân, Lịch sử và Quốc phòng - An ninh, đáp ứng yêu cầu cơ bản của chương trình giáo dục phổ thông mới là định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh; định hướng giá trị công dân quyền và nghĩa vụ, hội nhập quốc tế… Như vậy, nội dung giáo dục Lịch sử và Quốc phòng - An ninh là các nội dung giáo dục bắt buộc đối với tất cả học sinh cấp THPT. Ngoài ra, ở cấp THPT, học sinh còn được tự chọn học Lịch sử ở môn Khoa học xã hội là môn học dành cho những học sinh thiên hướng về các ngành thuộc lĩnh vực Khoa học tự nhiên và Công nghệ hoặc môn Lịch sử chọn theo nhóm và một số chuyên đề học tập mở rộng, chuyên sâu về Lịch sử là môn học và chuyên đề học tập dành cho học sinh có thiên hướng về Khoa học xã hội và Nghệ thuật. Đồng thời, nội dung này còn được giáo dục tích hợp trong các môn học khác, khắc phục sự trùng lặp trong nhiều môn học khác nhau ở chương trình giáo dục phổ thông hiện hành.
Phóng toNội dung SGK chưa tính đến điều kiện vùng miền, do đó chưa phù hợp với học sinh ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số...TTO - Bộ GD-ĐT vừa tổng hợp các ý kiến đánh giá chương trình và sách giáo khoa mới từ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục ở 64 tỉnh thành, cùng Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Hội Khuyến học Việt Nam và Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam. Ngoài một số ưu điểm rõ ràng được đa số công nhận, chương trình và sách giáo khoa SGK bị cho rằng vẫn còn rất nhiều thiếu sót và khuyết điểm. Công nhận nhiều thiếu sót Chương trình giáo dục phổ thông chưa đảm bảo sự cân đối giữa “dạy chữ” và “dạy người”, còn nặng về kiến thức, chưa coi trọng việc hình thành nhân cách cho trẻ em. Chưa chỉ rõ nội dung và cách thức đánh giá sự trưởng thành về nhân cách của học sinh sau mỗi cấp học. Một số chủ đề trong chương trình một số môn học ở trung học còn mang nặng tính hàn lâm với phần đông học sinh, ít thực hành và rèn luyện kĩ năng như ngữ văn, sinh học, vật lý, tiếng Anh. Yêu cầu của chương trình là cao đối với bộ phận học sinh có học lực yếu kém, học sinh nhóm dân tộc thiểu số và học sinh sinh sống ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Còn một số nội dung ở chương trình, một số môn học cấp THPT chưa thực sự cơ bản, làm cho khối lượng kiến thức gia tăng quá mức. Còn có sự trùng lặp nội dung ở một số môn học như sinh học và công nghệ; hoạt động ngoài giờ lên lớp và giáo dục công dân; giáo dục hướng nghiệp và nghề phổ thông. Nội dung của các môn có quan hệ mật thiết với nhau nhưng còn chưa thực sự hỗ trợ cho nhau như môn vật lý phải sử dụng những kiến thức của môn toán mà tại thời điểm đó học sinh chưa được học. Ngoài ra, theo phản ánh của nhiều phụ huynh và học sinh, yêu cầu cần đạt đối với môn thể dục là không phù hợp với thực tế rất đa dạng về chiều cao, sức khỏe, cân nặng của học sinh các vùng miền và trong mỗi lớp, gây ra sự căng thẳng về tâm lý và quá tải về thể lực với một bộ phận học sinh. Hiện nay tại các trường trong cả nước, nhiều môn học như ngữ văn, lịch sử, địa lý, giáo dục công dân giáo viên yêu cầu học sinh phải thuộc lòng các bài mẫu, các số liệu chi tiết quá nhiều, chưa đòi hỏi đúng mức việc hiểu và vận dụng các kiến thức, giá trị cần đạt tới, do đó vừa gây quá tải cho việc học tập, vừa không khuyến khích sự sáng tạo, hình thành chính kiến của học sinh. Ngoài ra còn có sự không phù hợp giữa dung lượng kiến thức thể hiện qua tổng số môn học và hoạt động giáo dục và thời lượng học tập. Học sinh phải học trên 6 buổi trong một tuần, sinh hoạt chuyên môn của giáo viên có khi phải làm vào chủ nhật. Đồng thời có sự không phù hợp giữa chương trình giáo dục với điều kiện cơ sở vật chất nhà trường và trình độ của một bộ phận giáo viên. Về đánh giá SGK phổ thông, các đánh giá tập trung vào việc phê bình nhiều thuật ngữ khoa học trình bày trong một số cuốn SGK còn khó, trừu tượng hoặc chưa chuẩn xác, chưa nhất quán trong một lớp, giữa các lớp, giữa các cấp học. Cách dùng từ, thuật ngữ, khái niệm, ký hiệu, cách tiếp cận giữa SGK theo chương trình chuẩn và SGK nâng cao ở một số môn học cấp THPT có chỗ chưa thống nhất, gây khó khăn nhiều cho giáo viên, học sinh như SGK các môn vật lý, toán, ngữ văn. Một số phần trong một số cuốn SGK thiếu sự cân đối cần thiết giữa lý thuyết và thực hành, giữa ôn tập và kiểm tra; chưa chú ý đúng mức đến yêu cầu vận dụng kiến thức vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. Ngoài ra, còn có một số ý kiến trong dư luận xã hội cho rằng SGK lớp 1 có khổ tương đối to và nặng so với học sinh. Nhìn chung, nội dung SGK chưa tính đến điều kiện vùng miền, do đó chưa phù hợp với học sinh ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số… Bộ GD-ĐT làm gì để khắc phục? Theo Bộ GD-ĐT, bộ sẽ tiếp tục chỉ đạo tổ chức các đánh giá toàn diện về chương trình và SGK ở các năm học tiếp theo 2008-2009, 2009-2010, có thể 2010-2011 cho lớp 12 để tiếp tục thu thập các ý kiến về chương trình và SGK sau một số năm triển khai, từ đó có hướng dẫn điều chỉnh nội dung và cách dạy từng môn một cách phù hợp. Căn cứ kết quả đánh giá một số năm với từng SGK, nếu có đầy đủ các thông tin về chất lượng kém của một số SGK cụ thể, có thể sẽ quyết định viết lại. Đồng thời, ngay từ bây giờ bắt đầu triển khai các nghiên cứu để xây dựng một chương trình giáo dục phổ thông mới, triển khai sau năm 2010. Chương trình giáo dục phổ thông sẽ được đổi mới một cách cơ bản theo hướng tích hợp các môn học, tạo cơ hội lựa chọn nội dung học tập nhiều hơn, biến quá trình dạy học thành quá trình tự học có hướng dẫn và hỗ trợ tối ưu của giáo viên ngay trong học tập ở phổ thông, tăng cường hoạt động xã hội của học sinh. Dựa trên chuẩn chương trình quốc gia, hướng dẫn thực hiện phù hợp với các vùng, miền khác nhau, xây dựng các nội dung giáo dục địa phương phù hợp với nhu cầu và điều kiện của các vùng, miền, đặc biệt với học sinh dân tộc thiểu số. Tổ chức biên soạn một số bộ SGK dựa trên chương trình quốc gia. Các bộ SGK này sẽ do Bộ GD-ĐT tổ chức thẩm định và trao quyền lựa chọn sử dụng cho các địa phương. Bộ GD-ĐT cho biết sẽ thực hiện ngay một số giải pháp điều chỉnh lại kế hoạch dạy học, rút bớt thời lượng học tập ở mỗi tuần, đảm bảo tối đa ở tiểu học là 25 tiết/tuần, THCS là 28 tiết/tuần và THPT là 29 tiết/tuần để không gây quá tải cho cả giáo viên và học sinh; xem xét, điều chỉnh một số môn học từ bắt buộc sang tự chọn; từ ngày 1-7-2008, khai trương mục “Góp ý SGK” trên trang tin điện tử của Bộ GD-ĐT để mọi người dân có thể đóng góp trực tiếp. Đổi mới mạnh mẽ cách thức kiểm tra, thi. Kiên quyết giảm tình trạng kiểm tra, thi với yêu cầu học sinh phải thuộc lòng nhiều sự kiện, các bài văn mẫu; tăng cường các câu hỏi đòi hỏi học sinh suy nghĩ, trả lời theo cách hiểu và vận dụng của riêng mình. Đối với các môn năng khiếu như âm nhạc, mỹ thuật, thể dục sẽ đánh giá theo mức “đạt” hoặc “không đạt”. Đặc biệt, môn thể dục sẽ nghiên cứu chuyển sang hướng khuyến khích học sinh luyện tập thể thao có hệ thống, có cơ sở khoa học và phấn đấu nâng cao thể lực phù hợp với đặc điểm của mỗi học sinh. Đồng thời Bộ sẽ chỉ đạo xem xét điều chỉnh thời gian nghỉ hè của học sinh, nhất là ở THPT và chuyển một số môn từ bắt buộc sang tự chọn bắt buộc trong một nhóm các môn nhằm làm giảm tổng số môn học với một học sinh...
Bài tham luận về chương trình giáo dục phổ thông 2018Năm học 2020 - 2021 là năm đầu triển khai chương trình giáo dục phổ thông GDPT mới. Sau quá trình thực hiện gặp không ít khó khăn, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng triển khai chương trình. Mời các bạn tham khảo những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện chương trình GDPT 2018 và đưa ra bài học kinh nghiệm khi thực hiện chương trình GDPT thuận lợi khi thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018Về Sách HS SGK- Có đủ SHS- GV có phần dễ dạy hơn vì các bài được phân chia theo Chủ đềVề đồ dùng học tập, tư liệu- Bộ đồ dùng của HS khó sử dụngVề Học sinh- HS hứng thú tham gia các hoạt động khởi động trước tiết học, các trò chơi, các BT liên quan đến tô màu, trò chơi….Về GV- Có SGV, có trang Hành trang số, Tập huấn…để tham khảoVề PHHS- Chưa có ý kiến phản hồi đồng tình hay phản đối về CT Chân trời sáng tạoVề KHBH- Có nhiều trang, nhóm, sách tham khảo…. trên mạng có KHBH để GV tham khó khăn khi thực hiện chương trình GDPT 2018Về Sách HS SGK, VBT- TV nội dung đọc khá dài, có bài nhiều vần, không cho viết vào bài ôn tập nên HS rất khó đọc được nội Toán HS chưa được làm trực tiếp vào SHS, nên thao tác hướng dẫn HS làm bài tập GV còn nhiều bỡ ngỡ, tốn nhiều thời VBT TV chỉ có 1 bài cho cả tuần gây khó khăn cho GV+ Không phân chia bài cụ thể cho từng bài, từng ngày+ Có bài có nội dung bài tập, có ngày không có BT+ Tiết Thực hành có nhiều nội dung, bài luyện đọc VBT Toán+ Có nhiều bài tập- Vở tập viết trình bày chưa khoa học các bài nối tiếp nhau, có bài 1 hàng rồi sang trang khác, không có chỗ để GV nhận đồ dùng học tập, tư liệu- Thiếu đồ dùng dạy học tranh ảnh, đồ dùng của GV.- Cơ sở vật chất chưa có điều kiện tivi, máy chiếu, âm thanh hỗ trợ giảng dạy tương tác trình chiếu, nên cách truyền đạt chưa linh hoạt, sinh động như các bài giảng mẫu- Các môn học khác cảm thấy tương đối ổn, nhưng thiếu đồ dùng dạy học nên cũng khó truyền đạt nội dung được sinh động- Trang GV khó đăng nhập theo mã số sau sách vì+ Mã số in quá nhỏ,+ Đa số đăng nhập đều bị báo là mã số đã đăng nhập hoặc sai mật khẩuVề chương trình- Môn Đạo đức Cánh Diều gây khó cho GV vì bài 1 tiết, có bài 2 tiết, có bài 3 Toán tiết 2 thực hành có nhiều bài Phân chia, sắp xếp các vần nhóm vần chưa hợp lí, các bài ôn tập đâu thì có bảng ôn, các bài sau lại không có bảng ônVề Học sinhKhó khăn khi đọc các bài Ôn tập vì quy định không cho viết vào SHS; không cho viết vào SHS toán….Về GV- Thời gian tập huấn còn quá ít, khó tiếp thu vì đa số là trực tuyến- Nội dung bài soạn dài và nhiều- Thiếu các phương tiện hỗ trợ âm thanh, tivi, sách tham khảo, tranh ảnh….Về PHHS- Chưa có phản ánh gì, cũng có PHHS điện thoại hỏi về viết bài ở nhà, chưa hỏi gì về chương trình…Về KHBH- Nội dung bài soạn dài và nhiềuđa số GV đều cho HS làm vào Sách vì nếu không làm vào sách thì HS không nhớ, không biết phải làm saoGóp ý- TV + Toán nên cho HS viết vào SHS- Cung cấp các trang thiết bị+ Âm thanh+ Tranh ảnh+ Tivi hoặc máy chiếu+ Đồ dùng dạy học cho GV+ Các sách thiết kế bài dạy sách tham khảo ngoài SGV- Tiếng Việt cho GV tự chủ+ Thay đổi các từ khó đọc, từ địa phương miền Bắc,+ Giảm các câu từ trong bài đọc mỗi ngày- VBT Tiếng việt nên phân chia các BT với nội dung cho tương ứng với từng bài Vở tập viết trình bày khoa học hơn có thể tách thành tuần hoặc trình bày hợp lí hơn, nên có chỗ để GV nhận Toán nên phân chia các bài cụ thể thành 2 tiết riêng biệt- Môn Đạo đức nên phân chia nội dung các bài lại cụ thể mỗi bài 2 tiết- Trang nên cung cấp mỗi GV 1 mã số để đăng nhập tất cả các tư liệu- HĐTN nên tách thành 1 tiết riêng không nhập vào SH chào cờ và SHLBài tham luận về chương trình giáo dục phổ thông 2018THAM LUẬN KHỐI 2MỘT SỐ THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆNCHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG 2018 VỚI HỌC SINH LỚP 2Kính thưa quý vị đại biểu, kính thưa toàn thể hội nghị! Trước tiên tôi hoàn toàn nhất trí với ý kiến của đ/c Hiệu trưởng. Để làm rõ hơn những nhiệm vụ và phương hướng trong kế hoạch của nhà trường, khối 2 xin đưa ra một số thuận lợi, khó khăn và giải pháp khi thực hiện chương trình GDPT 2018 đối với HS lớp Thuận lợi- Về phía nhà trường+ Ngay từ đầu năm học, nhà trường đã tổ chức tập huấn cho toàn giáo viên khối lớp 2 để giới thiệu tổng thể về chương trình GDPT 2018 và giới thiệu chương trình lớp 2 năm học 2021-2022 theo chương trình GDPT 2018 – Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống. BGH hướng dẫn tổ khối xây dựng kế hoạch bài học phù hợp với điều kiện vừa học tập vừa phòng chống dịch COVID-19.+ Giáo viên trong khối nhiệt tình, năng động, tâm huyết với nghề, có trình độ chuyên môn vững vàng. Luôn học hỏi để từng bước hoàn thiện nhiệm vụ được giao.+ 100% giáo viên dạy lớp 2 được tập huấn đầy đủ nội dung chương trình sách giáo khoa bộ sách “Kết nối tri thức với cuộc sống”, phương pháp dạy học theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh.+ Về chương trình SGK HS lớp 2 đã được học bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống từ năm lớp 1 nên có sự kế thừa và kiến thức được phát triển theo vòng xoáy đồng tâm.+ Bộ sách có nội dung hay và phong phú, kênh hình đẹp, kênh chữ rõ ràng phù hợp với HS lớp 2.+ Chủ đề giáo dục học sinh gần gũi, giáo dục về tình yêu thương bạn bè, gia đình, ông bà, cha mẹ, thầy cô, quê hương đất nước….- Về Cơ sở vật chất tương đối đầy đủ 1 ti vi, 1 máy bộ máy tính, 1 máy soi, phục vụ tốt cho việc dạy học lớp 2 theo chương trình giáo dục Ban đại diện cha mẹ học sinh, phụ huynh học sinh quan tâm và ủng hộ đến việc thực hiện chương trình giáo dục Khó khăn+ Thời gian HS nghỉ hè dài, nhiều HS quên kiến thức, quên vần dẫn đến việc HS đọc châm, sai; viết không đúng chính tả. Môn Toán nhiều HS quên các bảng cộng, trừ trong phạm 10, cách thực hiện các dạng toán nên lúng túng trong việc vận dụng vào chương trình môn Toán lớp 2.+ Do tình hình dịch COVID-19, chương trình kế hoạch dạy học môn Tiếng Việt và môn Toán thời lượng các tiết trong tuần tăng nên khó khăn trong việc tiếp nhận, ghi nhớ kiến thức của HS.+ HS với trình độ nhận thức khác nhaunên việc tiếp thu kiến thức không đồng đều, GV rất vất vả khi truyền đạt kiến thức theo chương trình mới cho các em.+ HS lớp 2 có vốn từ còn hạn chế, môn Tiếng Việt phần luyện viết đoạn nhiều, đa dạng nội dung nên khó khăn cho HS trong việc viết đoạn văn, câu văn diễn đạt chưa rõ ràng.+ Thời gian thực hành, ôn luyện toán, Tiếng Việt ít nhưng lượng bài tập Giải pháp khắc phục+ Trước khi HS tựu trường, được sự chỉ đạo của nhà trường, GVCN tổ chức ôn tập KT và nắm bắt tình hình của HS qua phần mềm Zoom.+ GV tự linh động, tìm phương pháp tốt nhất trong việc rèn HS tùy theo đối tượng trong lớp mình chủ nhiệm.+ GV kết hợp cùng PHHS trao đổi kiến thức, phương pháp giảng dạy để cùng rèn luyện cho các em tốt hơn khi thực hiện chương trình mới.+ Tổ chức sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học, theo chuyên đề. Bồi dưỡng chuyên môn qua tham dự các chuyên đề… Lên tiết dạy trong đợt bồi dưỡng giáo viên hè. Nắm vững quy trình lên lớp các tiết dạy. Đối với môn Toán và môn Tiếng Việt, tổ chức các tiết dạy mẫu. Tổ khối đã nghiên cứu, tìm ra những kiến thức cốt lõi trong môn Toán, môn Tiếng Việt mà HS cần đạt ở mỗi bài học, mỗi chủ đề. Xây dựng kiến thức cần ghi nhớ xuyên suốt năm học đối với HS lớp 2 với hai môn Toán và Tiếng Việt.+ Tổ chức tập huấn Thông Tư 27/2020/ của Bộ Giáo dục Quy định đánh giá học sinh tiểu Kiến thức Tiếng Việt- Trên lớp, GV tăng cường kiểm tra đọc cá nhân học sinh, kết hợp với PHHS lựa chọn những bài đọc ngoài, truyện thiếu nhi,… để HS luyện đọc ở GV củng cố và giúp HS nhận biết về từ chỉ đặc điểm qua hình ảnh thực tế hàng dụ GV mời một HS đứng trước lớp, yêu cầu cả lớp tìm từ chỉ đặc điểm về hình dáng, tính tình, màu sắc quần áo, tóc, da...- GV đưa ra công thức để HS ghi nhớ mẫu câu Ví dụ Em là học sinh lớp 2.+ Câu giới thiệu Sự vật + là + sự vật.+ Câu nêu đặc điểm Sự vật + đặc điểm từ, cụm từ; GV cho HS lấy ví dụ, phân tích, lưu ý HS từ , cụm từ chỉ đặc điểm đứng ngay sau sự vật và kết hợp với từ “rất”; cho HS luyện tìm từ, đặt câu vào đầu Phần luyện viết đoạn, GV phân tích rõ đề, hướng dẫn HS cấu trúc của đoạn văn đưa ra một số câu hỏi gợi ý.- GV đưa ra cách trình bày một số đoạn văn mẫu để HS quan Kiến thức Toán- GV xác định kiến thức trọng tâm bài học, lựa chọn PP và HTTC dạy học để phát huy năng lực Với những HS quên bảng cộng trong phạm vi 10, GV giao việc và kiểm tra cá nhân những HS chưa thuộc khi ôn tập kiến thức GV lưu ý phần ghi nhớ lên bảng phụ một số công thức, nội dung cần ghi nhớ, kết hợp với PH để ôn luyện cho Tăng cường việc kiểm tra cá nhân HS, đôn đốc cá nhân để HS chưa ghi nhớ KT tích cực học tập và nắm được KT cơ Ví dụ phần giải toán dạng bài Thêm, bớt một số đơn vị, GV hướng dẫn HS+ B1 đọc kĩ đề bài, xác định dạng toán dựa vào ngữ liệu đã cho GV tóm tắt dễ hiểu hoặc dựa vào dấu hiệu của bài toán+ B2 Xác định câu trả lời, phép tính, đơn vị.+ B3 Trình bày bài Những tiết Luyện tập liên quan đến dạng toán phép cộng qua 10 trong phạm vi 20, GV củng cố và cho HS nêu cách tách số nhiều lần.+ Trên đây là một số thuận lợi, khó khăn và biện pháp thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 của khối 2- trường Tiểu học ..........năm học ...... Rất mong sự đóng góp ý kiến của các tổ khối để các biện pháp khối 2 đưa ra được đầy đủ hơn. Trân trọng!Trên đây là nội dung chi tiết của Thuận lợi và khó khăn khi thực hiện chương trình GDPT 2018. Tất cả các tài liệu về Văn bản Giáo dục đào tạo được VnDoc cập nhật và đăng tải thường xuyên. Chi tiết nội dung của các Văn bản, Thông tư mời các bạn cùng theo dõi và tải về sử dẫn mới về bổ nhiệm, xếp lương giáo viên Tiểu Học từ 20/3/2021Bảng lương giáo viên các cấp theo hạng chức danh nghề nghiệp mới từ 20/3/2021Cách xếp lương và bảng lương giáo viên Tiểu Học từ ngày 20/3/2021
hạn chế của chương trình giáo dục phổ thông mới